Phòng trị bệnh tôm chết sớm EMS - Hoại tử gan tụy cấp AHPND

Phòng trị bệnh tôm chết sớm EMS - Hoại tử gan tụy cấp AHPND
Chia sẻ:

Hội chứng tôm chết sớm, hoại tử cơ đã gây ra tổn thất đáng kể cho ngành thủy sản trong những năm qua, khiến cho sản lượng nuôi của quý bà con bị giảm mạnh. Để giúp quý bà con có được những phương pháp tối ưu nhất trong việc phòng trị hai căn bệnh trên, Âu Mỹ AEC xin được gửi đến bài viết sau đây với các phương pháp phòng trị bệnh ems đã được ứng dụng thực tế thành công trên nhiều ao nuôi khắp cả nước. 

AHPND là bệnh gì?

Hội chứng tôm chết sớm (Early Mortality Syndrome -  Bệnh EMS) còn gọi là Hội chứng hoại tử gan tụy cấp (Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome - AHPNS) làm cho cả tôm sú lẫn tôm thẻ chân trắng chết hàng loạt. Bệnh EMS xuất hiện đầu tiên ở miền Nam Trung Quốc năm 2009 và lan rộng đến các nước ASEAN như Việt Nam (2010), Malaysia, Thái Lan (2011)… 

Thời gian qua, bệnh hoại tử gan tụy, bệnh ems đã trở thành “nỗi ám ảnh lớn của người nuôi tôm” trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Mặc dù các nhà khoa học đã tìm ra tác nhân gây ra Hội chứng chết sớm/Hoại tử gan tụy cấp (EMS/AHPNS) nhưng đến nay vẫn chưa có một phác đồ điều trị cụ thể nào được đưa ra. 

Bệnh EMS thường xuất hiện trên tôm từ giai đoạn giống đến nuôi thương phẩm và trầm trọng hơn khi các yếu tố nhiệt độ, độ mặn, pH trong ao nuôi cao và hàm lượng oxy hòa tan thấp. 

Tác nhân gây bệnh EMS trên tôm

Tại Việt Nam, Bộ NN&PTNT, Tổ chức Sức khỏe Động vật Thế giới (OIE), các tổ chức quốc tế (World Bank, FAO, Global Aquaculture Alliance) cùng phối hợp với các chuyên gia đến từ trường Đại học Arizona (Mỹ) do GS. Donal Lightner làm trưởng đoàn. Sau 3 năm nghiên cứu (2011 - 2013), nhóm chuyên gia và TS Trần Hữu Lộc đã phân lập được tác nhân gây bệnh chính Hội chứng tôm chết sớm (bệnh EMS) ở tôm là do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra.

Vi khuẩn gây bệnh ems ở tôm

Hình 1.1. Vi khuẩn gây bệnh EMS trên môi trường CHrom Agar và TCBS

Đối với bệnh EMS các nghiên cứu cho thấy rằng sau khi bị nhiễm mầm bệnh, tôm có thể chết rất nhanh, có khi chỉ sau khi tiếp xúc với mầm bệnh chưa đầy 12h, tôm bệnh EMS trở thành nguồn lây cho các con tôm khỏe khác trong đàn qua đường nước, phân và cả xác tôm chết, làm cho bệnh lan nhanh. Đây cũng là lý do một khi đàn tôm đã nhiễm bệnh thì việc cứu chữa là rất khó khăn và ít hiệu quả. Chưa kể đến việc các chủng thuộc vi khuẩn Vibrio para gây bệnh EMS có tính kháng kháng sinh rất cao, đó cũng là những khó khăn trong quá trình điều trị triệt để loại bệnh này.

Dấu hiệu bệnh EMS

Dấu hiệu bệnh ems

Hình 2.1: Dấu hiệu tôm bệnh EMS; (1) Giai đoạn đầu của bệnh EMS chỗ nỗi giữa dạ dày và gan tụy bị mờ đục, đường ruột vẫn đầy thức ăn, màu gan bình thường. (2) Khoảng mờ đục rộng hơn, gan đổi màu, dạ dày màu đỏ và chuyển đục, có và không có thức ăn. (3) Gan giảm kích thước mờ nhạt, không có thức ăn, ruột lỏng, đỏ, tôm lờ đờ bỏ ăn. (4) Gan tụy teo, dạ dày và ruột trống, tôm yếu và hao hụt dần.

Biện pháp kiểm soát bệnh EMS trên tôm

Đảm bảo con giống sạch bệnh EMS

Đóng vai trò then chốt trong việc hạn chế dịch bệnh ở tôm, Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản Thái Lan (ABRC - Aquaculture Business Research Center) cho thấy bệnh EMS trên tôm nuôi khác nhau tùy thuộc và chất lượng tôm giống. Nếu gan tụy của tôm giống có màu trắng đục (Whitish) và không có chất béo (Fat lipid) thì những con giống này thường nhiễm Vibrio với mật độ 107 khuẩn lạc/g trước khi thả vào ao nuôi và là nguyên nhân gây chết tôm sau 20 ngày thả

Với những con tôm nhiễm bệnh EMS có mật độ khuẩn lạc vào khoảng 104 - 105 khuẩn lạc/g hệ gan tụy sẽ có màu nâu hoặc trắng, thời gian đầu những con tôm này trông bình thường nhưng thực ra chúng rất yếu và không hoạt động tốt. Do vậy, việc lựa chọn tôm giống sạch bệnh là khâu then chốt trong chủ động phòng tránh nhiễm bệnh EMS theo cả con đường lây ngang và lây dọc của dịch bệnh.

Tôm nhiễm ems

Hình 3.1: Tôm giống nhiễm bệnh EMS sau khi thả giống từ 12-25 ngày tuổi

Xử lý đáy ao

V. parahaemolyticus là một loại vi khuẩn gây bệnh cơ hội, phát triển một cách nhanh chóng nhờ tạo ra một màng sinh học có khả năng bám vào bề mặt chitin. Vi khuẩn có thể tồn tại dưới hình thức bào xác, trở thành không hoạt động trong thời gian dài trong điều kiện khô ráo. Để chờ điều kiện lý tưởng, đặc biệt Vibrio cholerae có thể tồn tại ở dạng khô lên đến 60 năm.

 

Xữ lý đái ao

Hình 3.2: Đáy ao chứa nhiều mầm bệnh EMS tiềm ẩn và khí độc

Victoria Alday-Sanz trình bày một quan sát chi tiết về bệnh EMS trong bài thuyết trình của mình tại Hội thảo Công nghệ Biofloc và bệnh tôm tại Việt Nam vào tháng năm 2013. Quan sát bà chỉ ra rằng trong cả các ao nuôi bán thâm canh ở Mexico và các ao nuôi thâm canh châu Á, đáy ao cho dù có lót bạt thì “đất dường như là yếu tố nguy cơ chính”. Điều này được xác thực bởi quan sát không thấy xuất hiện của bệnh trên tôm trong một hệ thống nuôi cách ly bằng lưới không chạm đáy ao.

Các trang trại Indonesia có đáy ao rất hợp vệ sinh, trong sự so sánh với lượng bùn tích lũy trong các ao nuôi phổ biến ở Malaysia. Hơn 90% số ao ở Indonesia có hệ thống xả trung tâm. Bùn thải từ sinh vật phù du chết, phân tôm và thức ăn thừa tích tụ ở trung tâm ao có thể được dễ dàng và thường xuyên thải vào các kênh đầu ra đơn giản, bằng cách kéo các đường ống thẳng đứng đặt ở một góc. Tần số xả có thể lên đến 5 hoặc 6 lần một ngày.

Hình 3.3: Cải tạo đáy ao và thiết lập hệ thống xi phông để làm sạch đáy ao  

Bùn tích lũy ở đáy ao gây trở ngại to lớn đối với chất lượng nước ao nuôi. Bùn không chỉ tiêu thụ một phần lớn oxy, nó còn giữ nhiệt và các thành phần dinh dưỡng thừa, sự xáo động bùn sẽ cho phép vi khuẩn gây bệnh sinh sôi nảy nở. Hạt thức ăn chìm hoặc quét qua khu vực này sẽ bị ô nhiễm bởi các vi khuẩn và cuối cùng bị tôm ăn. Indonesia có cho đến nay vẫn sạch bệnh AHPND. Tình trạng hoàn toàn sạch bệnh EMS / AHPND không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đáy ao sạch sẽ giúp ích vấn đề này. Nên tránh sự xáo động trong khu vực nhiều bùn, mật số vi khuẩn 10^8 CFU/ml vi khuẩn là cần thiết trong các thử nghiệm để lây nhiễm sang tôm. Không có tử vong ở mật số 10^4 CFU/ml.

Có các biện pháp cắt mầm bệnh EMS đối với các ao nuôi đã từng xuất hiện bệnh thông qua việc luân canh và đa canh, có thời gian phơi và cày đáy ao đủ lâu giữa các vụ nuôi, luân canh tôm - lúa, tôm - cá, đa canh với cá hoặc nuôi cá trong ao lắng, thực hiện các thực hành nuôi tốt... có tầm quan trọng trong hạn chế dịch bệnh bùng phát và khả năng lây lan nguồn bệnh EMS.

Xử lý nguồn nước

Chủ động nguồn nước sớm từ đầu vụ, khi dịch bệnh xảy ra không nên lấy nước vào ao nuôi. Phải có ao chứa dự trữ, ao lắng, ao xử lý trước khi cấp vào ao nuôi. Diệt mầm bệnh bằng Chlorine hay TCCA, GuDo theo đúng hướng dẫn về liều lượng để không cho vi khuẩn, virus, ký sinh trùng…và các yếu tố mang mầm bệnh vào ao nuôi.

Dù chính vụ hay trái vụ tôm đều bị bệnh như nhau, nhất là đối với bệnh EMS, vấn đề là người nuôi phải đầu tư chiều sâu và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới như thế nào để hạn chế hay vượt qua được bệnh EMS. Để giảm thiểu những thiệt hại do dịch bệnh gây ra, người nuôi phải có đầy đủ trang - thiết bị (như máy sục khí), có ao ương tôm trước khi thả nuôi mật độ thưa và trong quy trình nuôi phải có ao lắng, ao xử lý nước, thường xuyên khống chế tảo trong ao nuôi. 

Để đảm bảo tôm nuôi phát triển tốt, không xảy ra dịch bệnh EMS, các ao nuôi cần kiểm tra môi trường nước, khống chế mật độ vi khuẩn Vibrio/ml nước trước khi thả nuôi, luôn đảm bảo oxy hòa tan cao, duy trì độ mặn và nhiệt độ nước không quá cao, độ pH trong ao nuôi đảm bảo từ 7,8 - 8,2. Mực nước trong ao nuôi cũng phải ở mức thích hợp: từ 1,2 - 1,4m, luôn tiến hành định kỳ diệt khuẩn trong ao nuôi. Các ao nuôi khi có tôm bệnh phải tẩy trùng triệt để, khoanh vùng, cách ly, không xả nước thải, tôm chết ra ngoài môi trường.

Hình 3.4. Kiểm tra môi trường nước ao và vi khuẩn Vibrio sp   

Nuôi tôm kết hợp cá rô phi

Kết quả nghiên cứu nuôi kết hợp tôm và cá rô phi đã chỉ ra Cá rô phi giúp thiết lập một hệ sinh thái vi sinh trong nước ao với các quần thể tảo và vi khuẩn cân bằng. Trong một hệ sinh thái vi sinh cân bằng như vậy, vi khuẩn gây bệnh ít có cơ hội phát triển đến đủ mật độ có thể gây bệnh cho tôm. Sự hiện diện của cá rô phi còn giúp cho các biến động lớn về hệ vi sinh này ít xảy ra. 

Một khi hệ vi sinh trong ao có sự biến động lớn như hiện tượng sụp tảo trong ao thì khả năng vi khuẩn gây bệnh bùng phát để gây bệnh trên tôm là rất lớn. Nếu cá rô phi thả trong ao nuôi chung với tôm ở một mật độ thấp vừa phải thì nó có tác dụng diệt tảo đáy, làm sạch đáy ao, ăn các con tôm bệnh chết giúp giảm sự lan truyền của bệnh... Ở điều kiện đó, vi khuẩn gây bệnh EMS khó có thể phát triển đủ mật độ gây bệnh.

Hình 3.5. Thiết lập ao nuôi tôm và cá rô phi để phòng bệnh EMS  

Mô hình nuôi tôm CNC Kin 68 phòng ngừa bệnh đường ruột và bệnh EMS

Kin 68 - giải pháp phòng ngừa bệnh EMS chủ động dựa trên cơ sở hiểu biết đặc điểm của mầm bệnh và đường lây lan, các tương tác của mầm bệnh với vật chủ và môi trường.

Hình 3.6. Mô hình CNC KIN 68 an toàn, ít rủi ro dịch bệnh của công ty Âu Mỹ

Đây là quy trình nuôi tôm lót bạt, nhiều giai đoạn sử dụng biện pháp chủ động phòng ngừa và kiểm soát chặt mầm bệnh ngay từ đầu, quản lý theo dõi các chỉ tiêu môi trường, tảo và đặc biệt là vi khuẩn Vibrio sp không để phát triển. Sử dụng các sản phẩm diệt khuẩn, phòng bệnh bằng thảo dược an toàn cho tôm nuôi, hiệu quả cao phòng trị bệnh. Tăng sản lượng và giúp giảm chi phí nuôi, nâng cao giá trị tôm, ít rủi ro do bệnh trong quá trình nuôi. 

Phòng bệnh EMS trên tôm

  • Một lưu ý quan trọng để phòng bệnh EMS trên tôm là loại bỏ chất thải trong ao nuôi định kỳ bằng phương pháp xiphong, có thể thiết kế hố xiphong để hút chất thải định kỳ hoặc thường xuyên bổ sung men vi sinh nhằm xử lý chất thải. Loại bỏ chất thải góp phần làm giảm vi khuẩn gây bệnh EMS trong ao nuôi tôm.
  • Thường xuyên kiểm tra mật độ vi khuẩn gây bệnh định kỳ 5 – 7 ngày/lần khi mật độ vi khuẩn tăng cao hơn 103 CFU/ml có thể sử dụng thuốc diệt khuẩn như BKC, iodine, Rudo, Virkon… 2 ngày liên tiếp cho đến khi mật độ khuẩn có hại trong nước giảm. Sau khi dùng diệt khuẩn 48h cần cấy lại men vi sinh liều cao giúp ổn định môi trường.

Hình 4.1. Phương pháp test khuẩn kiểm tra bệnh EMS 

Trị bệnh AHPND trên tôm - trị bệnh EMS trên tôm

  • Con đường xâm nhập chính của vibrio là thông qua thức ăn nên giảm cho ăn khi tôm bệnh, trộn thuốc điều trị và diệt khuẩn nguồn nước cho đến khi ngừng chết. Khi tôm giảm bệnh, tỉ lệ hao còn ít kiểm tra thấy tôm khỏe mạnh trong sàng ăn hơn sau đó bắt đầu cho ăn dần dần.

  • Khi tôm có dấu hiệu bệnh EMS, bệnh gan, giảm thức ăn, trộn Antirota (3-5g/kg) hay Prosize 20 new (5ml/kg) liên tục trong 3-5 ngày, sau đó trộn men vi sinh đường ruột SH zym, bổ gan Liver bio kết hợp VS01, Zp us xử lý đáy ao cho tôm khỏe mạnh.

Hình 4.2. Kiểm tra gan tụy và đường ruột tôm thẻ nhiễm bệnh EMS

SH ZymVi sinh xử lý khí độc VS 01AntiRotathảo dược điều trị gan tôm liver bio

Hình 4.3. Bộ sản phẩm AEC đặc trị bệnh EMS, tôm chết rãi rác

Công ty CPTMDV Đầu tư Âu Mỹ (AEC) bảo lưu QTG.

 

Sao chép, đăng lại nội dung cần ghi rõ nguồn AuMyAEC.com

 

Video quy trình trị bênh ems và ehp trên tôm

Đang xem: Phòng trị bệnh tôm chết sớm EMS - Hoại tử gan tụy cấp AHPND

Viết bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên
0 sản phẩm
Xem chi tiết
0 sản phẩm
Đóng
.
.
.